Lupus ban đỏ hệ thống là gì? Các công bố khoa học về Lupus ban đỏ hệ thống

Lupus ban đỏ hệ thống, hay còn được gọi là bệnh lupus ban đỏ toàn thân, là một bệnh tự miễn dịch tổn thương multiple ảnh hưởng đến nhiều bộ phận và hệ thống tro...

Lupus ban đỏ hệ thống, hay còn được gọi là bệnh lupus ban đỏ toàn thân, là một bệnh tự miễn dịch tổn thương multiple ảnh hưởng đến nhiều bộ phận và hệ thống trong cơ thể. Bệnh này xuất phát từ hệ thống miễn dịch tấn công nhầm các tế bào và mô sức khỏe của cơ thể, gây ra việc tổn thương nhiều bộ phận như da, khớp, các cơ quan nội tạng (như tim, thận, gan, phổi, não), huyết quản và hệ thống thần kinh.

Lupus ban đỏ hệ thống thường có những triệu chứng đa dạng như mệt mỏi, sốt, đau khớp, kích thước tức thì khi đục, sưng và đau nhức, hắt xì, da dễ bị cháy nắng và tổn thương khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời.

Đây là một bệnh mãn tính và không có phương pháp điều trị hoàn toàn hiệu quả. Tuy nhiên, điều trị tập trung vào việc kiểm soát triệu chứng và giảm tác động của bệnh lên các cơ quan nội tạng. Bệnh lupus ban đỏ hệ thống có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh và yêu cầu theo dõi và quản lý từ bác sĩ chuyên khoa.
Lupus ban đỏ hệ thống là một bệnh tự miễn dịch, trong đó hệ thống miễn dịch tự xác định những tế bào và mô của cơ thể như là tác nhân nguyên nhân gây hại và tấn công chúng. Điều này gây ra việc tổn thương và viêm nhiễm ở nhiều bộ phận và các cơ quan, bao gồm da, khớp, tim, thận, phổi, gan, não, hệ tiêu hóa và hệ thống thần kinh.

Lupus ban đỏ hệ thống thường gặp ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15-44 tuổi), tuy nhiên, nó có thể ảnh hưởng đến bất kỳ ai ở bất kỳ độ tuổi nào. Nguyên nhân cụ thể của bệnh vẫn chưa rõ ràng, nhưng có thể liên quan đến yếu tố di truyền, môi trường và những yếu tố trigger gây ra bệnh như cường độ ánh sáng mặt trời, căng thẳng, nhiễm trùng và thuốc lá.

Triệu chứng của lupus ban đỏ hệ thống có thể khác nhau tùy thuộc vào bộ phận và cơ quan bị ảnh hưởng. Một số triệu chứng chung bao gồm:

1. Mệt mỏi, sốt và mất cân bằng.
2. Đau và sưng các khớp, gây ra khó khăn trong việc di chuyển và hoạt động hàng ngày.
3. Da nhạy cảm và dễ bị cháy nắng, có thể xuất hiện ban đỏ hoặc ban hợp.
4. Rối loạn trong hệ tim mạch như viêm màng tim, viêm mạch và suy tim.
5. Tổn thương thận gây suy thận và nhiễm trùng tiểu niệu.
6. Tác động lên hệ tiêu hóa có thể gây tiêu chảy, buồn nôn và nôn mửa.
7. Tác động lên hệ thần kinh gây ra các triệu chứng như đau đầu, đau tê, mất cảm giác và rối loạn tư duy.

Điều trị lupus ban đỏ hệ thống tập trung vào việc kiểm soát triệu chứng và giảm tác động của bệnh lên cơ quan nội tạng. Điều này thường bao gồm sử dụng thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs), corticosteroid, thuốc ức chế miễn dịch và thuốc chống tác động gây ra biến chứng. Các biện pháp tự chăm sóc như cung cấp đủ giấc ngủ, xoa bóp, kiểm soát ánh sáng mặt trời và giữ một lối sống lành mạnh cũng rất quan trọng.

Bệnh lupus ban đỏ hệ thống là một bệnh mãn tính và không có phương pháp điều trị hoàn toàn hiệu quả. Người bệnh cần theo dõi sát sao với bác sĩ chuyên khoa và tuân thủ chế độ điều trị để kiểm soát bệnh và cải thiện chất lượng cuộc sống.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "lupus ban đỏ hệ thống":

Bạch cầu trung tính kích hoạt tế bào tua tua dạng huyết tương bằng cách phóng thích các phức hợp DNA tự thân – peptide trong bệnh lupus ban đỏ hệ thống Dịch bởi AI
American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 3 Số 73 - 2011

Trong bệnh lupus ban đỏ hệ thống, bạch cầu trung tính phóng thích các phức hợp peptide/DNA tự thân kích hoạt tế bào tua tua dạng huyết tương và hình thành kháng thể tự phát.

Mức độ interleukin-6 tăng cao trong dịch não tủy ở bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống có tổn thương hệ thần kinh trung ương Dịch bởi AI
Wiley - Tập 33 Số 5 - Trang 644-649 - 1990
Tóm tắt

Các mẫu huyết thanh và dịch não tủy (CSF) từ 14 bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống (SLE) có tổn thương hệ thần kinh trung ương (CNS) đã được nghiên cứu để xác định hoạt tính interleukin-6 (IL-6) sử dụng khối u lai chuột phụ thuộc IL-6, MH60.BSF2. Chúng tôi cũng đã nghiên cứu 23 bệnh nhân mắc các bệnh thần kinh không viêm và 9 bệnh nhân SLE không có tổn thương CNS. Hoạt tính IL-6 trong CSF chỉ tăng cao ở bệnh nhân SLE có tổn thương CNS, mặc dù không có sự khác biệt đáng kể nào về hoạt tính IL-6 huyết thanh giữa 3 nhóm này. Hoạt tính IL-6 trong CSF không có sự tương quan với tỷ lệ albumin CSF-huyết thanh (Q albumin; một chỉ số chức năng của hàng rào máu-não) hoặc hoạt tính IL-6 huyết thanh ở bệnh nhân SLE có tổn thương CNS. Hoạt tính IL-6 trong CSF giảm đáng kể khi các triệu chứng CNS thuyên giảm sau khi điều trị thành công. Những kết quả này cho thấy việc xác định hoạt tính IL-6 trong CSF có thể hữu ích trong việc đánh giá hoạt động bệnh lý của CNS ở bệnh nhân SLE. Hơn nữa, dữ liệu này xác nhận sự hiện diện của sự kích hoạt hệ miễn dịch trong CNS ở những bệnh nhân có bệnh CNS liên quan đến SLE.

Tác động của các bệnh thấp khớp lên chức năng tình dục Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2009
Tình dục là một khía cạnh phức tạp trong cuộc sống của con người và không chỉ đơn thuần là hành động tình dục. Chức năng tình dục bình thường bao gồm hoạt động tình dục với sự chuyển tiếp qua các giai đoạn từ hưng phấn đến thư giãn mà không gặp phải vấn đề gì, và với cảm giác thỏa mãn, hoàn thiện và vui vẻ. Các bệnh thấp khớp có thể ảnh hưởng đến tất cả các khía cạnh của cuộc sống, bao gồm cả chức năng tình dục. Các nguyên nhân gây rối loạn chức năng tình dục là đa yếu tố và bao gồm các yếu tố liên quan đến bệnh tật cũng như liệu pháp điều trị. Ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp và viêm cột sống dính khớp, đau đớn và trầm cảm có thể là những yếu tố chính góp phần vào rối loạn chức năng tình dục. Ngược lại, ở phụ nữ bị hội chứng Sjögren, lupus ban đỏ hệ thống và xơ cứng hệ thống, rối loạn chức năng tình dục dường như có mối liên hệ chặt chẽ nhất với sự khó chịu hoặc đau đớn ở âm đạo trong quá trình giao hợp. Cuối cùng, rối loạn chức năng tình dục ở bệnh nhân fibromyalgia có thể chủ yếu liên quan đến trầm cảm, nhưng các triệu chứng đặc trưng của fibromyalgia (đau tổng quát, cứng khớp, mệt mỏi và mất ngủ) có thể góp phần vào sự xuất hiện của rối loạn chức năng tình dục. Việc điều trị rối loạn chức năng tình dục sẽ tùy thuộc vào các triệu chứng cụ thể của bệnh nhân, tuy nhiên, có một số khuyến nghị chung bao gồm: khám phá các tư thế khác nhau, sử dụng thuốc giảm đau, áp dụng nhiệt và thuốc giãn cơ trước khi hoạt động tình dục và khám phá các phương pháp biểu đạt tình dục thay thế. Đây là một bài tổng quan hệ thống về tác động của một số bệnh thấp khớp đối với chức năng tình dục. Đến nay, chưa có tổng quan nào trước đây về chủ đề này.
#bệnh thấp khớp #chức năng tình dục #viêm khớp dạng thấp #viêm cột sống dính khớp #hội chứng Sjögren #lupus ban đỏ hệ thống #xơ cứng hệ thống #fibromyalgia #rối loạn chức năng tình dục
Tác động của liệu pháp hydroxychloroquine đến các cytokine pro-inflammatory và hoạt động bệnh lý ở bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống: Dữ liệu từ LUMINA (LXXV), một nhóm đa sắc tộc tại Mỹ Dịch bởi AI
Lupus - Tập 21 Số 8 - Trang 830-835 - 2012

Mục tiêu: Chúng tôi nhằm xác định tác động của liệu pháp hydroxychloroquine lên mức độ các chỉ số proinflammatory/prothrombotic và điểm số hoạt động bệnh lý ở bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống (SLE) trong một nhóm đa sắc tộc, đa trung tâm (LUMINA). Phương pháp: Các mẫu huyết tương/huyết thanh từ bệnh nhân SLE (n = 35) được đánh giá tại thời điểm xuất phát và sau khi điều trị bằng hydroxychloroquine. Hoạt động bệnh lý được đánh giá bằng điểm SLAM-R. Mức độ của interferon (IFN)-α2, interleukin (IL)-1β, IL-6, IL-8, protein cảm ứng (IP)-10, protein hóa học tế bào đơn nhân-1, yếu tố hoại tử khối u (TNF)-α và ligand CD40 hòa tan (sCD40L) đã được xác định bằng phương pháp xét nghiệm miễn dịch đa lớp. Các kháng thể anticardiolipin được đánh giá bằng các xét nghiệm ELISA. Ba mươi hai mẫu huyết tương/huyết thanh tương ứng với tần suất từ các người hiến tặng khỏe mạnh được sử dụng làm đối chứng. Kết quả: Mức độ IL-6, IP-10, sCD40L, IFN-α và TNF-α tăng đáng kể ở bệnh nhân SLE so với đối chứng. Có một mối tương quan dương tính nhưng vừa phải giữa điểm SLAM-R tại thời điểm xuất phát và mức độ IFN-α (p = 0.0546). Liệu pháp hydroxychloroquine dẫn đến sự giảm đáng kể trong điểm SLAM-R (p = 0.0157), và sự giảm điểm SLAM-R sau liệu pháp hydroxychloroquine tương quan mạnh mẽ với sự giảm mức độ IFN-α (p = 0.0087). Kết luận: Liệu pháp hydroxychloroquine dẫn đến cải thiện lâm sàng đáng kể ở bệnh nhân SLE, điều này tương quan mạnh mẽ với việc giảm mức độ IFN-α. Điều này chỉ ra vai trò quan trọng của việc ức chế kích hoạt TLR nội sinh trong cơ chế tác động của hydroxychloroquine trên SLE và cung cấp bằng chứng bổ sung cho tầm quan trọng của interferon loại I trong sinh lý bệnh của SLE. Nghiên cứu này nhấn mạnh việc sử dụng hydroxychloroquine trong điều trị SLE.

Giảm cân và cải thiện tình trạng mệt mỏi ở bệnh lupus ban đỏ hệ thống: thử nghiệm có kiểm soát giữa chế độ ăn chỉ số glycemic thấp và chế độ ăn hạn chế calo ở bệnh nhân điều trị bằng corticosteroid Dịch bởi AI
Lupus - Tập 21 Số 6 - Trang 649-655 - 2012

Nền tảng: Bệnh nhân mắc lupus ban đỏ hệ thống (SLE) có thể cần điều trị bằng corticosteroid kéo dài, điều này dẫn đến tăng cân quá mức và nguy cơ tim mạch gia tăng. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của chế độ ăn chỉ số glycemic thấp đối với bệnh nhân SLE phụ thuộc corticosteroid trong việc giảm cân và cải thiện kiểm soát glycemic. Thiết kế: Tổng cộng có 23 phụ nữ được tham gia vào một nghiên cứu kéo dài 6 tuần. Tất cả đều mắc SLE nhẹ, ổn định, đang được điều trị bằng corticosteroid và có chỉ số khối cơ thể (BMI) > 25 kg/m2. Các đối tượng được phân ngẫu nhiên vào chế độ ăn chỉ số glycemic thấp (Low GI) hoặc chế độ ăn hạn chế calo (Low Cal). Điểm cuối chính là giảm cân. Các điểm cuối phụ bao gồm khả năng dung nạp chế độ ăn, các dấu ấn sinh học về nguy cơ tim mạch, hoạt động bệnh, cảm giác mệt mỏi và chất lượng giấc ngủ. Kết quả: Giảm cân ở cả hai nhóm điều trị là đáng kể (trung bình ± SD: chế độ ăn Low GI 3,9 ± 0,9 kg; chế độ ăn Low Cal 2,4 ± 2,2 kg, p < 0,01 so với mức cơ bản ở mỗi nhóm). Cũng có những cải thiện đáng kể trong việc đo vòng eo và hông. Tuy nhiên, sự khác biệt về giảm cân và các số đo vòng eo và hông giữa hai nhóm chế độ ăn không có ý nghĩa thống kê. Đã có sự giảm đáng kể trong Thang đánh giá mức độ mệt mỏi ở cả hai nhóm chế độ ăn (p < 0,03). Cả chế độ ăn Low GI và Low Cal đều được dung nạp tốt, không gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng hay tăng cường độ hoạt động của bệnh. Kết luận: Giảm cân đáng kể có thể đạt được trong 6 tuần trong một thử nghiệm chế độ ăn dành riêng cho những đối tượng có SLE ổn định, đang dùng liều thấp prednisolone. Cả hai chế độ ăn đều có khả năng dung nạp như nhau và không gây ra sự bùng phát tình trạng hoạt động của bệnh. Kết quả của chúng tôi cho thấy việc thay đổi chế độ ăn có thể cải thiện đáng kể cảm giác mệt mỏi ở những đối tượng mắc SLE.

Thrombotic thrombocytopenic purpura trong lupus ban đỏ hệ thống: hoạt động bệnh và việc sử dụng thuốc độc tế bào Dịch bởi AI
Lupus - Tập 11 Số 7 - Trang 443-450 - 2002

Hội chứng purpura thrombocytopenic huyết khối (TTP) là một rối loạn huyết học hiếm gặp và đôi khi có thể gây tử vong, có thể đồng tồn tại với lupus ban đỏ hệ thống (SLE) và các bệnh tự miễn khác. Chúng tôi đã xác định tất cả các trường hợp TTP được ghi nhận tại cơ sở của chúng tôi trong vòng 3 năm qua thông qua một cơ sở dữ liệu máy tính. Chúng tôi phát hiện rằng hoạt động của SLE (đo bằng Chỉ số Hoạt động Bệnh Lupus) và hoạt động TTP diễn ra song song ở ba bệnh nhân có SLE và TTP đồng phát. TTP ở ba bệnh nhân này, mặc dù kháng với liệu pháp truyền huyết tương, nhưng đã đáp ứng với liệu pháp hóa trị. Những quan sát này càng củng cố giả thuyết góp phần tự miễn vào sinh bệnh học của một số trường hợp TTP. Một đánh giá tài liệu cho thấy rằng tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân SLE với TTP nặng hơn, kháng điều trị bằng truyền huyết tương và thuốc độc tế bào, có thể không cao hơn so với bệnh nhân trả lời với truyền huyết tương đơn thuần (có thể có bệnh nhẹ hơn). Những dữ liệu này gợi ý rằng thuốc độc tế bào có thể có vai trò trong việc điều trị bệnh nhân có SLE hoạt động và TTP kháng với truyền huyết tương.

#thrombotic thrombocytopenic purpura #lupus ban đỏ hệ thống #thuốc độc tế bào #hoạt động bệnh
Đánh giá sách: Lupus ban đỏ hệ thống và purpura huyết khối giảm tiểu cầu. Báo cáo ba trường hợp và tổng quan tài liệu Dịch bởi AI
Lupus - Tập 7 Số 1 - Trang 37-41 - 1998

Chúng tôi mô tả ba bệnh nhân nữ mắc cả lupus ban đỏ hệ thống và purpura huyết khối giảm tiểu cầu, một trong số đó có kết cục tử vong. Tài liệu về mối liên quan giữa các bệnh này được tổng hợp và xem xét.

Tác động bảo vệ thần kinh của vi tế bào thần kinh đối với những tổn thương của phản ứng liên tục âm thanh do IgG chống P từ bệnh nhân SLE gây ra ở chuột chưa được điều trị Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2020
Tóm tắt Mục tiêu

Các kháng thể tự miễn chống lại protein ribosome P (kháng thể chống P) có liên quan chặt chẽ tới các biểu hiện thần kinh tâm lý của lupus ban đỏ hệ thống (NPSLE). Nghiên cứu hiện tại được thiết kế để đánh giá liệu các kháng thể chống P có thể gây ra hoạt động điện não bất thường ở chuột và điều tra cơ chế bệnh lý tế bào tiềm năng.

Phương pháp

Các kháng thể chống ribosome P của người được tinh chế bằng ái lực được tiêm tĩnh mạch vào chuột sau khi phá vỡ hàng rào máu-não (BBB). Phản ứng liên tục âm thanh (ASSR) được đánh giá dựa trên tín hiệu điện não đồ (EEG) phản ứng với kích thích âm thanh 40-Hz, được ghi lại từ các điện cực cấy vào hộp sọ của chuột. Kỹ thuật nhuộm miễn dịch huỳnh quang được sử dụng để kiểm tra hình thái và mật độ neuron và tế bào glia trong hồi hải mã và vỏ não. Sự hiện diện của quá trình apoptosis trong mô não được nghiên cứu bằng cách sử dụng xét nghiệm TUNEL. Một chế độ ăn PLX3397 được sử dụng để loại bỏ chọn lọc vi tế bào thần kinh khỏi não của chuột.

Kết quả

Các kháng thể chống P lưu hành đã làm tăng cường ASSR và kích hoạt vi tế bào thần kinh thông qua BBB bị phá hủy, trong khi không quan sát thấy quá trình apoptosis thần kinh rõ ràng. Ngược lại, khi vi tế bào thần kinh bị tước bỏ, các kháng thể chống P đã gây ra sự giảm mạnh ASSR và apoptosis thần kinh.

Kết luận

Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng các kháng thể chống P có thể trực tiếp gây ra sự rối loạn của các tiềm năng phát sinh âm thanh trong não và rằng vi tế bào thần kinh có liên quan đến việc bảo vệ hoạt động thần kinh sau sự xâm nhập của các kháng thể chống P, điều này có thể có những ý nghĩa quan trọng đối với NPSLE.

#lupus ban đỏ hệ thống #kháng thể tự miễn #phản ứng liên tục âm thanh #vi tế bào thần kinh #tổn thương thần kinh
ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHI LUPUS BAN ĐỎ HỆ THỐNG CÓ KHÁNG THỂ ANTIPHOSPHOLIPID TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1
Đặt vấn đề: Sự hiện diện của kháng thể antiphospholipid (aPL) là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất gây huyết khối và là yếu tố tiên lượng bệnh tiến triển nặng hơn ở các trẻ Lupus ban đỏ hệ thống (SLE). Cách thức tiếp cận tình trạng này vẫn chưa thống nhất giữa các trung tâm trên thế giới và hầu hết dựa trên các nghiên cứu ở người lớn, các báo cáo loạt ca nhỏ cũng như kinh nghiệm lâm sàng của bác sĩ. Tại Việt Nam, cho đến nay vẫn chưa có báo cáo nào về đặc điểm của kháng thể aPL trên dân số SLE trẻ em. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mô tả tần suất lưu hành của kháng thể aPL trên dân số SLE trẻ em và các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của nhóm bệnh nhi này tại Bệnh viện Nhi Đồng 1. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, thực hiện trên 55 bệnh nhi SLE và được xét nghiệm kháng thể aPL tại khoa Thận - Nội tiết Bệnh viện Nhi Đồng 1 trong khoảng thời gian từ tháng 01/2019 đến tháng 03/2022. Kết quả: Tại thời điểm chẩn đoán, tỷ lệ kháng thể aPL dương tính là 9/55 (16%); trong đó Lupus anticoagulant dương tính 8/9 (89%), anticardiolipin dương tính 2/9 (22%) và anti-β2-glycoprotein I dương tính 5/9 (56%). Trong nhóm bệnh nhi SLE có kháng thể aPL, tuổi khởi phát bệnh trung vị là 12 tuổi; biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất là ban da (56%) và đau khớp(44%); biểu hiện cận lâm sàng thường gặp nhất là thiếu máu (100%), giảm bổ thể C3 (100%), ANA dương tính (89%); có 1 trường hợp (11%) xuất hiện biến cố huyết khối động mạch (nhồi máu não). Kết luận: Kháng thể aPL dương tính ở các trẻ SLE là một tình trạng không thường gặp nhưng cần được lưu ý trong thực hành lâm sàng. Tổn thương cơ quan thường gặp nhất của trẻ SLE có kháng thể aPL là da và huyết học.
#Kháng thể antiphospholipid #Lupus ban đỏ hệ thống #Lupus anticoagulant #anticardiolipin #anti-β2-glycoprotein I
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN LUPUS BAN ĐỎ HỆ THỐNG CÓ RỐI LOẠN LIPID MÁU
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm xác định tỉ lệ rối loạn lipid máu ở bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống và mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống có rối loạn lipid máu. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 72 bệnh nhân được chẩn đoán lupus ban đỏ hệ thống theo tiêu chuẩn SLICC 2012 tại Trung Tâm Dị Ứng Miễn Dịch Lâm Sàng Bệnh Viện Bạch Mai từ tháng 6 năm 2021 đến tháng 10 năm 2022. Kết quả: Tỉ lệ rối loạn lipid máu là 69,44%, trong đó tỉ lệ bệnh nhân có tăng cholesterol là 25%, tăng triglycerid là 47,22%, tăng LDL-C là 13,89% và giảm HDL-C là 41,67%. Tập trung chủ yếu trong độ tuổi sinh đẻ, tỷ lệ nữ/nam là 7:1, độ tuổi trung bình là 36,11 ± 13,15. Nhóm bệnh có chỉ số hoạt động bệnh cao hơn so với nhóm chứng ( 12,39 ± 7,03 so với 10,13 ± 5,57), tỉ lệ dương tính với kháng thể kháng nhân ANA, kháng thể kháng chuỗi kép dsDNA của nhóm bệnh cao hơn nhóm chứng. Ngoài ra, nhóm bệnh có bổ thể C3, C4, albumin máu trung bình thấp hơn nhóm chứng và protein niệu 24 giờ cao hơn. Kháng thể kháng chuỗi kép DsDNA dương tính làm tăng nguy cơ rối loạn lipid máu lên 10,2 lần.  Kết luận: Ở bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống, tỉ lệ rối loạn lipid máu chiếm tỉ lệ cao, có mối liên quan giữa rối loạn lipid máu và kháng thể kháng chuỗi kép DsDNA.
#Lupus ban đỏ hệ thống #rối loạn lipid máu.
Tổng số: 66   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7